Ngày nay 224 năm trước, trong một gia đình Hồi giáo Avar tại ngôi làng nhỏ thuộc Gimry (ngày nay là Dagestan, Nga), một đứa bé sau này sẽ đi vào lịch sử thế giới đã ra đời: Shamil.
Ban đầu Shamil có tên là Ali, nhưng sau một lần đổ bệnh thì đã thay tên theo tập tục địa phương. Bố của ông, Dengau, là một địa chủ, và chính bởi thế nên Shamil và người bạn thân của ông là Ghazi Mollah đã có cơ hội nghiên cứu nhiều môn học, trở thành một người có học vấn rất cao, được người dân kính trọng.
Shamil lớn lên vào thời điểm Đế quốc Nga đang bành trướng vào các lãnh thổ của Đế chế Ottoman và Ba Tư. Nhiều quốc gia vùng Kavkaz đã đoàn kết lại để chống Nga, và cuộc xung đột giữa đôi bên về sau được gọi là Chiến tranh Kavkaz (1817-1864). Do Xa lộ Quân sự Gruzia ở khu vực trung tâm do Nga kiểm soát, thế nên cuộc chiến này bị xẻ đôi thành hai cuộc chiến nhỏ hơn, bao gồm Chiến tranh Nga-Circassia ở phía Tây và Chiến tranh Murid ở phía Đông. Quê của Shamil nằm ở mạn Đông, và vì thế mà lúc trưởng thành, ông tham gia vào Chiến tranh Murid. Vai trò của ông là cố vấn cho người bạn Ghazi Mollah của mình, bấy giờ đã trở thành lãnh đạo của cuộc kháng chiến.
Năm 1832, Ghazi Mollah hy sinh trong Trận Gimry, và Shamil là một trong hai người Murid duy nhất trốn thoát được, mỗi tội mang thương tích rất nặng và phải ẩn đi một thời gian, sau đó quay về đầu quân cho một Imam (Lãnh tụ Hồi giáo) mới của phong trào, Gamzat-bek. Được hai năm thì Gamzat-bek bị Hadji Murad ám hại, và Shamil trở thành Imam thứ ba của Daghestan, đích thân lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Trên cương vị Imam, Shamil đã sử dụng tài năng chính trị của mình để đoàn kết được rất nhiều bộ lạc Kavkaz lại với nhau, tạo thành một lực lượng đáng gờm để chống lại phe Nga. Ông cũng là một nhà quân sự tại ba, sử dụng khá hiệu quả các chiến thuật du kích để đạt được nhiều chiến thắng oanh liệt, và trở thành một trong những chỉ huy du kích huyền thoại của thế kỷ 19. Khốn nỗi là đến khoảng những năm 1850, cuộc chiến của Shamil đã bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Ông đặt nhiều kỳ vọng vào việc Anh, Pháp hoặc Đế chế Ottoman sẽ hỗ trợ mình đuổi Nga ra khỏi Kavkaz, những kế hoạch ấy bất thành. Thế rồi sau Chiến tranh Krym, Nga dồn sức tấn công các vùng lãnh thổ do Shamil kiểm soát. Bị áp đảo về lực lượng, đến tháng 9 năm 1859, Shamil đầu hàng, đặt dấu chấm hết cho Chiến tranh Murid.
Mặc dù thất bại, cuộc thánh chiến Hồi giáo giữa thế kỷ 19 chống lại Đế quốc Nga ở Kavkaz cùng với “Sư tử xứ Dagestan/Diều hâu xứ Kavkaz,” tức nhà lãnh đạo Imam Shamil nổi tiếng của nó,” đã trở thành nguồn cảm hứng cho Lesley Blanch, một nhà văn du lịch nổi tiếng người Anh. Năm 1960, bà xuất bản The Sabers of Paradise, một cuốn tiểu thuyết lịch sử tường thuật kể lại cuộc đấu tranh kéo dài hàng thập kỷ chống lại sự xâm lược của Nga ấy. Cuốn tiểu thuyết cũng tạo được chút ít tiếng vang, nhưng ngày nay hiếm ai còn biết đến.
Dẫu vậy, di sản của The Sabers of Paradise vẫn tiếp tục trường tồn theo một cách không ai ngờ đến. Trong số những độc giả của The Sabers of Paradise có một ông nhà văn Mỹ, bấy giờ đang trong quá trình viết một cuốn tiểu thuyết. Ông anh mê The Sabers of Paradise đến độ không chỉ vay mượn nhiều theme từ nó để đưa vào tác phẩm của mình, mà còn đặt tên nhân vật và tước hiệu trong truyện theo kiểu rất “gợi,” chẳng hạn phản diện chính là “Vladimir,” hoàng đế là “Padishah,” thống đốc hành tinh là “Siridar,”… Thậm chí, lắm chỗ ông anh còn “thó” gần như nguyên văn câu từ của The Sabers of Paradise. Một số ví dụ tiêu biểu bao gồm:
- “May thy kindjal rust was a malediction” trở thành “May thy knife chip and shatter”
- “To kill with the point lacked artistry” trở thành “Gurney says there's no artistry in killing with the tip”
- “Thus, in writing of Shamyl, we must place him first in his time − the first half of the nineteenth century, and then in his place − the mountains” trở thành “To begin your study of the life of Muad'Dib, then, take care that you first place him in his time: born in the 57th year of the Padishah Emperor, Shaddam IV. And take the most special care that you locate Muad'Dib in his place: the planet Arrakis”
- “Shamyl, the embodiment of his land, was at once warrior and mystic, ogre and saint, foxy and innocent, chivalrous and ruthless” trở thành “He was warrior and mystic, ogre and saint, the fox and the innocent, chivalrous, ruthless, less than a god, more than a man”
- “Polish comes from the city, wisdom from the hills” trở thành “Polish comes from the cities; wisdom from the desert”
- “When Allah hath ordained a creature to die in a particular place, he causeth his wants to direct him to that place” trở thành “When God hath ordained a creature to die in a particular place. He causeth that creature's wants to direct him to that place”
- “O mountains of Gounib, O soldiers of Shamyl, / Shamyl’s citadel was full of warriors, / Yet it has fallen, fallen forever…” trở thành “O Seas of Caladan, / O people of Duke Leto-- / Citadel of Leto fallen, / Fallen forever…”
Và thế là như vậy, di sản của cuốn tiểu thuyết lịch sử ít người biết đến kia cũng như cuộc chiến nay phần nào đã bị quên lãng của dân vùng Kavkaz đã được Frank Herbert cho sống tiếp trong một trong những cuốn tiểu thuyết kinh điển nhất dòng SFF: Xứ Cát.
***
Bài gốc được đăng trong group Hội thích truyện Sci Fi trên Facebook. Cùng ghé chơi group để thảo luận về bài viết hoặc đọc thêm các bài tương tự, bạn nhé.
↓